Một ông bạn già bảo Soạn giả: “Suốt đời anh chỉ lấy số giúp cho người, Tài Tử thế. Nếu không thích hành nghề, thì sao chẳng viết sách đi? Môn Bát Tự Hà Lạc của anh có cỡ lắm rồi đấy!”.
Chỗ thân nên mới trả lời văng mạng rằng: “Cớ gì! mắc cỡ thì có. Nào đã biết gì đâu mà viết với lách. Học số tuy gần 40 năm thật, nhưng lẽ quyển Kinh Dịch chưa sờn, chứ đừng có nói là đã hân hạnh dứt lấy một lần, thì phỏng viết sách ra có ích gì, hay chỉ làm thiệt lấy đôi ba ram giấy và ít ký mực của học sinh nghèo”.
Ông bạn nghe xong mỉm cười rồi lại nghiêm nét mặt mà nói: “Chà! mặc cảm vừa vừa thôi chứ. Tuổi anh nay mai sắp sang tuần “Thất - Thập cổ lai hi rồi”, liệu ít nữa, xuống lòng đất mẹ có mang được tí sở học đi không? Mà nếu thiên hạ ai cũng nghĩ (Tếu) như anh cả, thì rồi môn BÁT - TỰ HÀ - LẠC đến mất giống ư?
Tuy câu chuyện đối đáp tầm phào như trên, mà rồi cũng làm cho đầu óc phải suy nghĩ. Soạn giả tự nhủ: “Ừ, anh bạn nói cũng có lý. Như người học Phật có ứng khẩu được KỆ mới là hiểu KINH. Học sách Thánh Hiền mà không làm được bài vở gì thì sao gọi là triết học. Suốt đời chưa trình làng được một chữ nghĩa nào về LÝ - SỐ, thì rồi đây, khi sang thế giới bên kia lỡ gặp các Cụ: Chu Công, Khổng Tử, Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết v.v... liệu các Cụ có để yên cho hay không, hay Khai trừ thẳng cánh”. Nghĩ vậy mà thấy rờn rợn góc gáy, nên rấp tâm phải viết một cái gì về LÝ SỐ, mặc dù vẫn viết rằng: Viết ra thì cũng tội, mà không viết ra cũng tội.
Nhưng viết gì đây?
Tử Vi, KINH DỊCH, MAI HOA, KỲ MÔN, GIÁP ĐỘN v.v... đều đã đủ mặt ở thị trường sách vở từ trong Thư Cục, Ấn Quán cho ra đến vỉa hè. Nhìn kỹ thì thấy thiếu BÁT TỰ và HÀ LẠC LÝ SỐ là 2 môn thịnh hành nhất ở các phố Hoa Kiều.
Gần đây, tình cờ gặp một thầy Tướng Số, người Hoa Kiều là chỗ quen nên ông ta hỏi: “Học giả Việt Nam các ông chỉ có lấy Tử Vi thôi, không ai biết lấy BÁT TỰ và HÀ LẠC à?”.
Chẳng lẽ soạn giả lại vô lễ nổi xung lên, nhưng liền nhớ ngay câu chuyện đối thoại xưa giữa YẾT KIÊU đục thuyền và giặc Nguyên, nên cũng bắt chước lối hiên ngang mà trả lời rằng: “Học giả Việt chúng tôi, trừ hạng tôi ra, lấy đấu mà đong không hết, còn ai cũng uyên thâm đủ các môn NHÂM, CẦM, ĐỘN, TOÁN cả, con cháu Trạng Trình mà không tinh thông sao được. Ông đã đọc Sử nước tôi chưa? Sở dĩ chúng tôi chỉ lấy Tử Vi thôi, là vì khoa ấy dễ phổ biến hơn hết”.
Ông thầy Tàu ngồi im. Lời của ông tuy không có gì là kỵ thị Văn Hóa, nhưng vô tình đã lùa ngọn roi châm chọc vào bên cạnh sườn Học Vấn gầy còm của Soạn giả, khiến hắn này phải có một quyết định như câu Dịch, hào 3 quẻ quải: “Quyết quyết độc hành”.
Thôi, đúng cũng là số đến ngày phải cầm bút rồi, mặc dầu đây không phải là “Bút Mộng Hoa” của Thi Hào Lý Bạch chi cả mà chỉ là bút rỉ mực cợn, đi đôi với bộ mắt đã mờ, gân tay đã mỏi, nhưng cũng cứ cố gắng và mạo muội vạch ra cuốn BÁT TỰ - HÀ LẠC này.
Xin tâm thành gọi là chút quà mọn tinh thần, Kính gửi đến gần xa quý vị xem chơi.
TẠI SÀI GÒN NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG NĂM QUÝ SỬU 1973
SOẠN GIẢ CẨN CHÍ
HỌC NĂNG
TỰA
Nếu tựa quy định người viết sách phải trình bày ý hướng của mình (Tự: TRẦN THUẬT trước tác giả chi ý thú tác giả. TỪ HẢI) thì nơi đây xin kính cẩn trần thuật như sau:
Ý kiến sách này có 2 mục tiêu:
Một là: Muốn phổ thông hóa một môn học về ĐỊNH MỆNH thuộc trình độ cao hơn Phổ Thông, nguyên nhân: LÝ SỐ HÀ LẠC từ xưa, vẫn được coi như là một môn học khó hiểu, chỉ có một số ít Học giả khá chữ Nho và chuyên Kinh Dịch mới nghiên cứu thôi. Một bác Đại Hiền đời Tống, Trần Y Xuyên Tiên Sinh đã phải nói là: HÀ - LẠC... cực chính đại, không nên khinh thường, đem truyền thụ cho bọn Phàm Tục (Cực chính đại, bất khinh di truyền thụ dung tục chi bối – HÀ LẠC LÝ SỐ quyển 1) ở một thời đại Nho Học cực thịnh, cách đây gần 10 thế kỷ, mà còn có câu ấy.
Huống chi ngày nay ở nước ta, NHO HỌC đã hồ tàn, mà người nghiên cứu KINH - DỊCH cũng hiếm có, nếu cứ tình trạng này mà lơi là, ngại khó thì ắt hẳn không chóng thì chầy môn HÀ LẠC sẽ mai một dần dần rồi biến mất, trên quê hương của những Đại gia Lý Số, Trạng Trình, Trạng Bùng v.v...
Chỉ vì nghĩ vậy mà điếc không sợ súng, sách này dám cả gan đem môn Hà Lạc ra phiên dịch, phần dịch, phần biên soạn thành chữ Quốc Ngũ để mong đem phổ biến rộng rãi giữa đám bà con anh em những kiến thức mà xưa nay người ta vẫn coi như vừa Huyền Bí vừa Bí Truyền. Sách này còn dám kỳ vọng rằng: Bất cứ độc giả nào, không cần biết một nét chữ Nho, chỉ cần xem kỹ, cũng có thể tự lấy và tự giải đoán được quẻ Hà Lạc. Nếu đạt được kết quả ấy thì HÀ LẠC mới có đất đứng ở giữa khoảng vườn rộng rãi, cây HÀ LẠC mới nhìn thấy bóng mặt trời, mới nở ngành xanh ngọn, phát huy được tinh hoa, để mang lại một cảm hứng mới cho các bạn hiếu đọc, và để ganh đua với nhiều Môn học khác như Tử Vi, Chiêm Tinh Học, Bốc Dịch... Kể ra cũng là một việc làm khá mạo muội như muốn san quả đồi thành đường phẳng để đi, nhưng sở dĩ soạn giả dám làm là vì có một sức tin tưởng mãnh liệt vào Trí tuệ thông minh và đức kiên nhẫn của bà con anh em người Việt chúng ta, bao giờ cũng tìm hiểu đến nơi và không bao giờ chịu lùi bước trước một vấn đề khó hiểu nào.
Tất có bản sẽ hỏi: Làm một việc có ý cầu kỳ như trên, để nhằm mục đích gì? Phải chăng cũng chỉ là tiếp tay vào với Cao Trào Tướng số đương lên, là a dua với (bọn thầy Mù gỡ gạo) như lời cụ Phan Bội Châu đã nói, là đổi món thuốc độc để mê hoặc lòng người, làm giảm mất CHÍ - TỰ - CƯỜNG và ĐỨC - TỰ - TIN của DÂN TỘC mà cuộc HÒA BÌNH sắp thực hiện cần phải tái Võ Trang tinh thần trong công cuộc cấp bách tranh thủ TỰ DO và điều kiện SINH TỒN hợp lý với Thế giới? Câu hỏi trên này quả có nghiêm nghị và xác đáng. Ấy cũng chỉ vì soạn giả không muốn chia xẻ cái quan niệm của Cao Trào Tuyệt Đối Tin Tưởng Định Mệnh mà sách này mong đạt một mục tiêu thứ 2 là: Tương đối hóa niềm tin Định Mệnh. Thật vậy, dù người ta sinh ra có Số, nhưng không sao có thể nghĩ được rằng: Ở giữa thời đại nguyên tử ngày nay, con người vẫn còn, như muôn ngàn kiếp xưa, chỉ là cái công cụ của Tạo hóa như cái máy lò so, để thi hành mệnh lệnh của Trời theo câu thường nói: “Một miếng ăn, một hớp uống cũng đều do Tiền định (Nhất ẩm nhất trác giai do Tiền định), hoặc: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao” (Kiều).
Hãy xem lại Kinh Dịch. Ta sẽ thấy ở đây một niềm sảng khoái vô biên, con người đã được công nhận là 1 đấng trong 3 Ngôi (Tam Tài: THIÊN, ĐỊA, NHÂN) có đường lối tự quyết cũng như TRỜI ĐẤT để điều hành VŨ TRỤ (hữu thiên đạo yên hữu nhân đạo yên, hữu địa đạo yên, Hê Tử Hạ) Há rằng người lại thất thế, trụt xuống ngang hàng với muôn loài để cũng bị động như chúng, làm nô lệ cho trời đất, vốn là 2 Đồng Liêu thượng đỉnh vẫn ngồi bên cạnh mình, trong TAM ĐẦU CHẾ nói trên? Có lẽ, cái chức vụ tối cao kia đã bị người ta quên lãng lâu ngày, nên một nhóm TỐNG NHO LÝ HỌC bèn quát khởi lên để nhắc lại quyền ấy, trong nhóm tiêu biểu nhất có Thiệu Khang Tiết Tiên Sinh đã nêu cao ngọn cờ TỔ SƯ TRẦN ĐOÀN để dâng cho loài người chữ lý số làm liều thuốc cấp thời chữa bệnh cứng rắn và ngoan cố của SỐ MỆNH.
Vinh dự nước Việt Nam ta cũng có đóng góp nhiều danh nhân vào ngành Lý Học này. Tay cự phách nhất là cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà người Trung Hoa xưa phải tôn trọng với câu (An Nam Lý Học hữu Trinh Tuyền).
- Trên vừa nói: Lý chữa bệnh được cho Số, tại sao? Số và Lý là cái gì? Ta thử xét xem. Ai cũng biết, Số do trời sinh ra bằng Năm, tháng, ngày giờ sanh bất di bất dịch. Số là vật bất biến. Trời nắm quyền số (Nam Tảo Bắc Đẩu). Vậy còn Lý về ai, nếu không về tay người, Lý duy ở tư tưởng người mà có, tất cả cái gì không do trời là Lý sáng tạo ra hết, cả về vật chất lẫn tinh thần. Lý biến Dịch vô cùng qua thời gian, không gian và qua cả tư tưởng thời đại của con người nữa; nền Văn minh của nhân loại từ thuở Hồng Hoang cho đến thời kỳ toàn thể thành Phật thành Tiên sau này đều cũng bởi người làm ra cả. Vậy thì Lý còn nặng đồng cân hơn. Số mà không Lý thì thật là vô lý. Nếu chỉ có Số không thôi, thì chim muông vạn vật đều có số cả, vì đều có ngày tháng sanh đẻ, đâu kém chi người. Sở dĩ chúng không có óc sáng tạo như người nên chỉ có Số mà không có Lý, Thiệu Ung tiên sinh rất coi trọng Lý nên nói rằng: (Phải sáng cái Lý trước khi khởi cái Số. Vì lấy Số mà không suy Lý là không được vậy. Khởi Số tất tiên minh Lý. Cái Số bất suy Lý thị bất đắc giả. MAI HOA DỊCH SỐ). Sách Tử Bình cũng ca tụng (Đo được cái Lý thì có thể biết được đến chỗ tuyệt diệu của điều U Vi, Độ Lý khả tri U Vi chi diệu).
Phạm Vi loại sách thực hành như quyển Hà Lạc này không cho phép bàn rộng về thuyết của chữ Lý (Xin xem lời phiếm bàn ở trang...) nên có điều nhận xét sau đây: Nếu người cũng tin Lý như tin Số thì có thể đi tới kết quả là: Người có thể cải tạo được phần nào Số mình. Nói một cách khác, người sẽ tự tạo lấy cho mình, một Định mệnh mới, nó tuy không thỏa mãn được hoàn toàn ý mình, nhưng cũng không quá lệ thuộc vào ý trời nữa.
Đó thiết tưởng là cái thâm ý trong tinh thần Lý Số HÀ LẠC như soạn giả đã tìm hiểu. Để xác định, xin tạm dùng phương trình thức sau đây:
SỐ + LÝ = ĐỊNH MỆNH
SỐ có thể vi với HẰNG SỐ (như số Pi p không thay đổi).
LÝ có thể vi với BIẾN SỐ (thay đổi).
ĐỊNH MỆNH tức như HÀM SỐ vậy.
Đặt phương trình thức như trên là có ý muốn trình bày rằng: Người có Lý phải chịu lấy trách nhiệm của mình chứ đừng cái gì cũng nhất nhất đổ tại trời. Nhân loại hung suy, dân tộc tồn vong, cá nhân thành bại, đều do tự mình một phần lớn, há rằng cứ oán trời, kêu đất trách người khác hay sao.
THƯỜNG NHẬN THẤY RẰNG:
Các bậc Học giả xưa, rất dè dặt việc viết sách. Sách nào thật hữu ích cho đời thì mới viết. Đối với hiện tinh hiện trạng của dân ta, cứ thực mà nói, thì còn nghèo nàn về Kinh tế, nhá nhem về Khoa học và dở dang về Đạo đức, nếu loại sách Số Tướng còn hữu ích chăng nữa, thì cũng chỉ hữu ích vào hàng thứ sau cùng, sau những loại sách cần thiết để nâng cao mức sống cho dân lành, mở mang tri thức cho người thất học, và làm lại tinh thần cho bọn sa ngã vong thân. Đó là một lẽ khiến sách Hà Lạc này dùng dằng mãi mới dám ra đời.
LẠI VỐN NGHĨ RẰNG:
Trong hàng ngũ Văn hóa cổ truyền, tuy thưa như sao buổi sáng, như lá mùa thu, nhưng vẫn hãy còn một số các Cụ Túc Nho bậc trưởng Thượng, đã đâu đến vai mình được biên soạn loại sách này. Đó là một lẽ thứ hai bắt buộc phải chờ, chờ mãi, nay mới dám cho ra.
Là quyển đầu tiên về Hà Lạc, LÝ SỐ bằng QUỐC VĂN, Tất nhiên sách này thiếu hẳn kinh nghiệm đáng lẽ được rút ra, nếu có, ở các sách đã dịch rồi của các bậc Tiền Bối hay quý vị đàn anh.
Đọc lời Đề bạt trong cuốn Chu Dịch của Cụ Phan, mà huống hổ thẹn cho cái tài sơ học thiển của mình. Đến như Cụ mà còn phải nói: (Ý kiến có chốn lầm lỗi, chữ nghĩa có nhiều chốn quê mùa, xin nhờ các bậc cao minh bổ dạy cho...) Huống chi tầm thường Vu Lịch là kẻ soạn sách này, những mong quý vị học giả bốn phương lượng tình chỉ bảo.
Tại Sài Gòn ngày Tiết Vu Lan rằm Tháng 7 năm Quý Sửu
Soạn giả Cần Tự
Học Năng
Đăng nhận xét