tháng 6 2016
“Buông bỏ” là một loại trí tuệ biết buông bỏ mới có được hạnh phúc! “Nhẫn nhường” không phải hèn yếu mà là khí chất của người quân tử 10 đặc điểm tính cách của người Việt Nam 13 đặc điểm chứng tỏ bạn đã tu từ kiếp trước nên nhất định có phúc báo 18 bí quyết để có được vận mệnh tốt 64 Quẻ Dịch 7 kiểu người sẽ nhận được phúc báo và gặp nhiều quý nhân 8 quẻ cung Càn 8 quẻ cung Cấn 8 quẻ cung Chấn 8 quẻ cung Đoài 8 quẻ cung Khảm 8 quẻ cung Khôn 8 quẻ cung Ly 8 quẻ cung Tốn 9 điều dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma An lục thân cho 64 quẻ dịch Bài học thành công Bàn tay Ánh sáng: Chương 1 Trải nghiệm chữa trị Bàn tay ánh sáng: Chương 10A Chẩn đoán luân xa hay chẩn đoán trung tâm năng lượng Bàn tay ánh sáng: Chương 10B Bàn tay ánh sáng: Chương 11 Quan sát hào quang trong các buổi chữa bệnh Bàn tay ánh sáng: Chương 12 Tắc nghẽn năng lượng và các hệ thống phòng vệ trong hào quang Bàn tay ánh sáng: Chương 13 Hào quang và mô hình luân xa của các cấu trúc đặc tính chủ yếu Bàn tay ánh sáng: Chương 14 Nguyên nhân bệnh tật Bàn tay ánh sáng: Chương 15 Từ tắc nghẽn đến bệnh tật Bàn tay ánh sáng: Chương 16 Quá trình chữa trị một quan điểm tổng quát Bàn tay ánh sáng: Chương 17 Trực tiếp đáo đạt thông tin Bàn tay ánh sáng: Chương 18 Thấu thị Bàn tay ánh sáng: Chương 19 Thính giác cao cấp và việc liên lạc với các thầy dạy tâm linh Bàn tay Ánh sáng: Chương 2 Cách sử dụng cuốn sách Bàn tay ánh sáng: Chương 20 Ẩn dụ của Heyoan về thực tại Bàn tay ánh sáng: Chương 22 Chữa trị tổng phổ Bàn tay ánh sáng: Chương 23 Chữa trị bằng màu sắc và âm thanh Bàn tay ánh sáng: Chương 24 Chữa trị các chấn thương xuyên thời gian Bàn tay ánh sáng: Chương 25 Tự chữa trị và thầy chữa tâm linh Bàn tay ánh sáng: Chương 26 Sức khỏe thách thức để trở thành chính mình Bàn tay ánh sáng: Chương 27 Sự phát triển của thầy chữa Bàn tay Ánh sáng: Chương 3 Ghi ghép về rèn luyện và phát triển việc hướng dẫn Bàn tay ánh sáng: Chương 4 So sánh cách nhìn bản thân và thực tại của chúng ta với các quan điểm khoa học phương Tây Bàn tay ánh sáng: Chương 5 Lịch sử nghiên cứu khoa học về trường năng lượng con người Bàn tay ánh sáng: Chương 6 Trường năng lượng vũ trụ Bàn tay ánh sáng: Chương 7A Trường năng lượng con người hay hào quang con người Bàn tay ánh sáng: Chương 7B Bàn tay ánh sáng: Chương 7C Bàn tay ánh sáng: Chương 9 Chức năng tâm lý của bảy luân xa chính Bàn tay Ánh sáng: Lời giới thiệu Bàn tay Ánh sáng: Phần II Hào quang con người Bàn tay ánh sáng: Phần III Chương 8 Các động lực tâm lý và trường năng lượng của con người Bàn tay ánh sáng: Phần V Chương 21 Chữa trị tâm linh Bí quyết thiết thực để cải biến vận mệnh các sao ăn nhậu Cách ái tình và các sao tình dục Cách bệnh tật và những sao ốm đau Cách đa ngôn và các sao ăn nói Cách đàn bà đa phu (nhiều chồng) trong tử vi Cách đàn ông sợ vợ trong tử vi Cách đi tu trong lá số tử vi Cách gian phi trong tử vi Cách giàu và những sao hữu sản Cách hay ăn hay nhậu Cách hiếm muộn trong khoa tử vi Cách hùng biện và các sao về ăn nói Cách khoa bảng và các sao học vấn Cách Làm Quan và những sao Qúy Cách nghèo và những sao nghèo Cách nghề nghiệp và những sao bá nghệ Chọn hướng xuất hành chọn ngày khai trương trong năm Đinh Dậu (2017) Chuyển hóa sân giận thành yêu thương Có nên phó mặc cho số phận Con lừa ngốc ngếch đến chết vẫn không hiểu nguyên do Con người về cơ bản là khác nhau Cô chấp và khổ đau Cuốn sách đoán mệnh cổ nhất của Trung Quốc Đạo đức nghề nghiệp của người làm thầy Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây Đạo Phật và 7 sự hiểu lầm phổ biến vô cùng nguy hiểm Đạo sĩ tu luyện 300 năm trong núi sâu vén mở bí mật về công năng đặc dị Đặc Tính Cửu Tinh Trong Huyền Không Phi Tinh Điển tích về Mai hoa dịch số Đôi điều về bát tự - Hà Lạc Đông Tây giao thoa Giới thiệu về Osho và các tác phẩm của Osho Học cách tu cái miệng Kim cang thừa một đời người một câu chú Kim Cương Thừa Kinh dịch - dự đoán quan vận Kinh dịch - dự đoán tài vận Làm theo phương pháp này của Warren Buffett dù việc có nhiều đến mấy bạn cũng hoàn thành dễ dàng Lịch sử khoa tứ trụ Lý giải mới về nguyên nhân khác biệt văn hóa Đông Tây Lý thuyết dụng thần tứ trụ - Chìa khóa để cải vận Mẫu văn khấn năm Bính Thân (2016) Miệng luôn tạo khẩu nghiệp phúc báo sớm muộn cũng chạy mất Một số bài học thú vị Một số câu chuyện ứng nghiệm Hà Lạc dự báo Một số lời dạy của Đức Đạt lai Lạt mavề Phật giáo Kim cương thừa Năng lực cải vận của số điện thoại ngày khai trương năm Bính Thân (2016) Ngẫu nhiên và tất nhiên Người lương thiện không tranh không cãi người tranh cãi không phải người lương thiện Những vị trí không nên động thổ trong năm 2016 Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Báo trước Hai bà và một sư Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương I Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương II Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương III Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương IV Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương IX Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương V Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương VI Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương VII Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương VIII Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương X Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XI Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XII Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XIII Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XIV Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XV Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XVI Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Chương XVII Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Lời bạt: Nắm lấy nghịch lí Osho – Tình yêu – Tự do – Một mình Mục lục Phật gia giảng ‘cần buông bỏ’ nhưng rốt cuộc là buông bỏ điều gì? Phong thủy: Chuyện người xưa chọn đất làm nhà Phong thủy: Nguyên tắc hóa giải ngũ hoàng sát Quy luật tính phương vị hỷ thần Sức hấp dẫn của kinh dịch tài thần và hạc thần Tất cả chúng ta đều phải “trở về nhà” Thần số học - khoa học về dự đoán Tính danh học Tính nguyên vận để xem thịnh suy của gia trạch Tổng quan về ứng dụng thuật phong thủy trong quy hoạch xây dựng và kiến trúc Trạch cát hay thuật chọn ngày tốt Tri thức là sức mạnh Triết lý sâu sắc của luận sư Ấn Độ Con người luôn ở trong vòng luẩn quẩn vì 8 mối quan tâm này Vài Bí Quyết Tử Vi Ít Người Biết - Tiến Sĩ Đằng Sơn Vài nét về kinh dịch Vài so sánh giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam Vận mệnh con người có thay đổi được không Vì sao những người yêu nhau hãy nên trân trọng nhau Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Ất Mão Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Bính Thìn Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Canh Thân Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Đinh Tị Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Giáp Dần Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Kỷ Hợi Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Kỷ Mùi Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Mậu Ngọ Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Mậu Tuất Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Nhâm Tuất Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Quý Hợi Xem tuổi vợ cho nam sinh năm Tân Dậu Ý nghĩa phong thủy và tác dụng của đá Ruby Y phục xứng kỳ đức

1. “Ra đời hai bàn tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay”.
2. "Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ. Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”
3. "Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí tuệ”
4. “Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.
5. "Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Phật Tính ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.
6. “Là Phật tử, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.
7. "Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị ô nhiễm, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.
8. “Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.
9.“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí tuệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

Phong thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là thời các triều nhà Minh, nhà Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này.
Hai khái niệm mà nhiều người hòa trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không phân biệt, đó là phong thủy và thuật phong thủy. Phong thủy là địa thế, địa hình, là đất, là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường sống mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người và cách thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thủy ấy. Như thế, phong thủy là tồn tại khách quan còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thủy.
Phong thủy còn có nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời, vũ trụ , về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả cho nên phong thuỷ vừa gần với con người lại vừa xa con người. Lý luận cơ bản của phong thủy (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuột ngữ sử dụng thì khác lạ với ngôn từ dùng hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dáng vẻ bí hiểm, đọc phong thủy và nghe về phong thủy thấy một không khí sống và chết đan xen, đất trời hòa nhập, rõ không ra rõ, mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin, có thể không tin thì cũng sợ. Thầy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ, gán một số quan niệm phong thủy vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thủy có bộ mặt thần bí.
Lý luận và thực tiễn của phong thủy vô cùng phức tạp, để xem một thế đất đặt mộ, phần lớn thày địa lý phải ở nhà gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm nghía đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại cơm rượu. Năm nay người chết, xem đất một nâm chờ năm sau cải táng đặt vào nơi đất chọn. Thành kính và đợi chờ đất phát. Chờ mãi không thấy phát lại ngẫm nghĩ, suy tính hay là tại mình tâm chưa thành, lòng chưa kính hay thậm chí hối vì đãi thày chưa hậu.
Ngay vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cạy nhờ thày phong thủy. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người làm nên ăn ra tưởng đâu như vì nhờ thày mà phát. Nhưng sang 1995-1996 nhà vay tiền làm, những mong tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “ house for rent" cả thời gian dài dài chẳng ai ngó hỏi. Nợ vốn chất chồng, lãi mạ đẻ lãi con, chắc cũng chẳng ai đi trách thày phong thủy. Thày phong thủy nào chẳng nói như tép nháy, lại đệm những từ như minh đường, huyền vũ, bạch hổ, thanh long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thày và tự hào mình đã được đặt ngang mình cùng thày đạo cao đức trọng.
Nước Trung hoa từ sau 1949 thuật phong thủy bị đả kích nặng nề, không dám công khai lộ diện nhưng nó lại được Hồng công, đài loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại có lúc rõ hình, có lúc lu mờ, kín đáo. Mấy năm gần đây, trong không khí cải cách chung về kinh tế ở Trung quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong thủy trên sách vở.
Điều khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là cái gì. Có người xếp phong thủy như một hiện tượng văn hóa, vì nó sống trong phần hồn của con người.
Trong phong thủy và thuật phong thủy có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn cho ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa diểm xây dựng. Từ môi trường và khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khỏe tốt, tâm lý tốt, ăn nên làm ra, đấy là những nhân tố tích cực.
Làm cho phong thủy thần bí, võ đoán như thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con gái lại góa chồng là điều chưa hẳn đã dễ tin.
Đọc phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng văn hóa, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, gọn đục khơi trong với phong thủy là điều có thể làm được.
Phong thủy gắn liền với đất đai, với phương vị. Tri thức về phong thủy không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị, hiểu theo cách của người Á đông.
Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thủy dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị.
Đời Minh có Từ chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm" có 2 quyển chỉ nam trâm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và hình vẽ. Ngoài ra, sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ.
Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn "La kinh tiêu nạp chính tông" bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch.
Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng tròn đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng.
Nếu chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà phong thủy gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 15o (toàn vòng 360o).
Nếu lấy vòng địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô, và vòng nhân bàn lệch về trái nửa ô.
Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, tứ tượng là Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm. Đó chính là bốn Phía Đông/Tây/Nam/Bắc.  Cách xác định phương vị trước thời Tần chép: Khi đi, trước mặt là chu tước, thì sau lưng là huyền vũ, còn bên tả là thanh long thì bên hữu, bạch hổ, điều này có nghĩa là, trước mặt là nam thì sau lưng là bắc, bên trái là đông thì bên phải là tây.
Chính Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu. Kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp.
Chuyện lưu truyền, khi Quản Lộ (đời Tam quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy đổ phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm sẽ ứng nghiệm.
Quách Phác trong "Táng kinh" dặn rằng: Thanh long bên trái, bạch hổ bên phái, chu tước đằng trước, huyền vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp thì huyền vũ phải cúi đầu, chu tước dang cánh, thanh long uốn khúc, bạch hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông, thanh long, đất màu xanh cây cỏ, phương Tây Bạch hổ màu đất trắng bạc, phương Nam chu tước đất đỏ màu hồng, phương Bắc huyền vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho Người.
Tứ tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong bát quái còn thêm bốn hướng của Bát quái là: Càn, Khôn, Cấn, Tốn. Đó chính là các hướng Tây bắc Tây nam, Đông nam, Đông bắc.
Như thế, phương đông có Giáp Mão Ất; đông nam có Thìn, Tốn, Tỵ; Nam có Bính, Ngọ, Đinh; Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân; Tây có Canh, Dậu, Tân; Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi; Bắc có Nhâm, Tý, Quý; đông bắc có Sửu, Cấn, Dần.
Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng dịa chí). Tám hướng thuộc thộp can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân , Nhâm, Quý ( bỏ Mậu, Kỷ trong thập can).
Các hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn-đoài. Bắc thuộc Khảm, đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài.
Phân vị theo Ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hành Thủy, đông thuộc hành Mộc, Nam hành Hỏa, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thủy là Nhuận hạ, Hỏa là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường.
Trên đây ta chỉ xét đến Chính ngũ hành dùng phổ biến trong phong thủy. Ngoài ra còn Bát quái ngũ hành và Hồng phạm ngũ hành cũng là loại ngũ hành thường dùng. Còn Tứ kinh ngũ hành, Tam hợp ngũ hành, Tứ sinh ngũ hành, Song sơn ngũ hành, Huyền không ngũ hành, Hướng thượng ngũ hành, Nạp âm ngũ hành ... không thể kể hết được.
Cụ thể của phong thủy thì thế đất tròn là Kim, thế dài là Mộc, thế nhọn là Hỏa, thế vuông là Thổ, thế như sóng gợn là Thủy.
Khi chọn đất phải dựa vào ngũ hành tương sinh mà luận đoán. Tránh ngũ hành tương khắc là điều thầy phong thủy tâm niệm hàng ngày.
Theo Hồng Vũ cấm thư luận về ngũ hành tương ngộ thì thủy giao thủy, nam nữ tất dâm. Phương Bắc thuộc Thủy, nếu có nước thấm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn thỏa. Nếu dựng nhà quay mặt hướng Nam thì sau nhà là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận, mới đẹp. Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà lại là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên.
Phương Nam là Hỏa mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa, theo phong thủy thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đối tượng xem xét là Kim mà có thế tròn (Kim) thì gia chủ sẽ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là mộc thì mộc mộc tương sính, trai gái trong nhà giàu sang, phú quý.
Ngoài ra quan hệ giữa Thiên, địa. Nhân còn có quy ước: Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ môn, Tốn là địa hộ, Bính là địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt, Càn là Thiên môn.
Trong quá trình xem xét phương vị thì tiên thiên bát quái của Phục hi để phối hợp âm Dương. Hậu thiên bát quái của Văn vương để xêp các Hào Tượng.
Ra đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là dương thì gò đống nổi cao lại là âm, đất sơn cước nhiều gò cao núi lớn là âm thì thung lũng bãi bằng trong khung cảnh đồi núi lại là dương. Chọn thế đất làm nhà hay đặt mộ trước hết phải trọng khâu cân bằng âm dương, đất sơn cước cường dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy), đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí hơi cao để tọa lạc (khởi đột). Khu đốt đẹp bên trái có thanh long (mạch nước), bên phải có bạch hổ (đường dài), thế đất đằng trước có ao đầm tỏa rộng (chu tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng (huyền vũ). Long là dương, Hổ là âm. Long-Hổ tương nhượng thì gia đình hòa thuận, trai gái xum vầy.
Núi chủ tĩnh (đứng yên) là âm thì nước chảy (chủ động) là dương. Thế đất đẹp là thế đất có núi chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lửng lờ nở rộng như chảy, như không, lưu luyến dùng dằng. Núi và nước hiền hòa bên nhau, cặp kè với nhau, bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ sở trong dương có âm, trong âm có dương, điều hòa âm dương là điều quan trọng. Luận âm dương rồi toán ngũ hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu.
Chọn các thế đất, cách chọn hướng suy cho cùng sau khi loại bỏ những điều thần bí và mê tín thì cũng là chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thỏa đáng.
Thuật phong thủy nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi cho cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Bây giờ đất chật, người đông lấy đâu ra đất rộng để tìm thanh long, bọch hổ. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì bật điều hòa nhiệt độ.

Phong thủy ghi lại dấu của một hiện tượng văn hóa xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao. Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thủy cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên rồi tìm cách hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để cuộc chung sống với môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại những điều mê tín và sự lợi dụng phong thủy lòe bịp thiên hạ thì phong thủy đâu có phải là dị đoan.

PGS.TS.Lê Kiều – Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội

CỐ CHẤP & KHỔ ĐAU
Có lẽ trên đời hầu hết những khổ đau đều phát sinh từ những ngộ nhận, cố chấp, độc đoán và hẹp hòi… Tại sao con người không thể mở lòng ra để sống khoan dung hơn, rộng lượng hơn, bớt đi những cố chấp không cần có để đừng gây khổ đau cho nhau…
Con người ta nếu hết tình cũng vẫn còn một chút nghĩa nào đó để cư xử trọn đạo với nhau. Thế nhưng có lẽ vì sống cho sự vị kỷ nhiều quá, cái tôi to quá, tự ái cao như bầu trời nên kéo theo biết bao là tức giận, tự ái, hận thù, trả đũa nhau, làm thỏa mãn cái tôi của mình để rồi ai cũng khổ, cũng sống trong tâm trạng bất an và đời sống chỉ còn là những ngục tù của khổ ải mà thôi.
Trong bất cứ mối quan hệ nào đi nữa, nếu không có được sự cảm thông, chia sẻ, khoan dung, chân tình với nhau, thì quan hệ đó khó bền vững với thời gian.
Có câu nói mà đa số ai cũng biết, đó là “sống trên đời cần có một tấm lòng … để gió cuốn đi”. Nếu những quan hệ trong cuộc sống không có cái gọi là “tình thương” thì con người luôn nghi kỵ nhau trên mọi lãnh vực, luôn “phòng thủ” mọi lúc mọi nơi và sẵn sàng “trả đũa” khi bị “tấn công”… đưa đến hậu quả là vợ chồng mất niềm tin, tình nhân ngờ vực nhau, bạn bè thiếu sự chân tình, anh chị em không tin nhau được, cha mẹ con cái đối xử nhau không có tình thân, gia tộc chẳng còn tình đoàn kết, tình làng nghĩa xóm chỉ còn là sự “dòm ngó”, hơn thua, tranh chấp, đố kỵ… Hậu quả là ta luôn sống trong tâm trạng căng thẳng, bất an từng giây, từng phút.  Sống một cuộc sống như thế thì thân phận con người đi về đâu?
Nên nhớ rằng chúng ta có mặt trên cõi đời này là đi tìm hạnh phúc cho mình và cho người… Chứ chẳng phải “gây đau khổ” cho người và cho mình. Có đôi lúc chúng ta quên đi mục đích hiện hữu của chính mình, ngay đây là đau khổ, là mất phương hướng trong cuộc sống, là khởi phát những niềm đau, những tuyệt vọng, những “than thân trách phận” thậm chí…nguyền rủa cuộc đời… Khi đau khổ dâng lên tột cùng, tuyệt vọng không còn chỗ để thoát, ta có khuynh hướng “hủy diệt” kẻ gây đau khổ cho ta, nếu không hủy diệt được người thì ta quay lại hủy diệt chính mình… Đó là những cái chết “tự tử” trong tâm trạng đầy phẫn uất và tuyệt vọng …
Có người đã sống như thế, tự lừa mình và dối người, hay nói cách khác có người luôn mang “mặt nạ” khi giao tiếp với nhau. Chúng ta vô tình biến cuộc sống trên đời này thành một sa mạc khô khan cằn cỗi, vắng bặt những giọt nước tình thương, ta hờ hững trước bất hạnh của tha nhân, lơ là với niềm đau đồng loại, vô cảm với tình người… Vậy cuộc sống như thế mang một ý nghĩa gì ?
Tất cả khổ đau trên cuộc đời phát xuất từ cái tôi, bản ngã, một ego theo quan điểm triết học. Cái tôi là cái đáng yêu nhất nhưng đồng thời cũng là cái đáng ghét nhất, vì nó là tâm điểm cố chấp, hẹp hòi, vị kỷ. Cái tôi khi ban phát một tình thương nào đó luôn đi kèm theo điều kiện, thí dụ trong tình yêu: “Tôi yêu em và em phải đáp trả tình tôi, ngoài tôi ra em không được yêu thương ai khác…”,  ngay đây tình yêu đi kèm theo điều kiện, nếu như không thỏa mãn điều kiện này lập tức tình yêu sẽ biến thành thù hận, thương nhớ sẽ hóa thân thành nỗi thống khổ và thiên đàng trở thành một địa ngục trần gian….
Tình thương có điều kiện luôn mang mầm mống của khổ đau, của nghiệt ngã nơi thân phận con người, vì tình thương đó luôn có bóng dáng của bản ngã, một bóng ma của cuộc đời. Bản chất của điều kiện là luôn khao khát và đòi hỏi, nghĩ đến mình nhiều hơn là nghĩ đến người, thậm chí biến đối tượng yêu thương thành một vật sở hữu và luôn áp đặt, thế nên lúc nào cũng tính toán và hoàn toàn logic theo ý nghĩ của riêng nó.
Còn tình thương vô điều kiện?
Đây là tình thương chân thật, vắng bặt bóng dáng của bản ngã, không có khao khát đòi hỏi nơi đối tượng nó yêu, hay nói cách khác là không có tính toán “lợi mình, thiệt người”, nơi đây mang một ý nghĩa “yêu người là mưu cầu hạnh phúc cho người chứ chẳng phải cho mình”, ngay đây tình thương thăng hoa lên địa vị “thánh thiện” và cao quý muôn đời của nó….
Do vậy trong câu nói “Sống trên đời cần có một tấm lòng … để gió cuốn đi”. Tại sao lại để gió cuốn đi… như dấu chim bay chẳng để lại vết tích gì, vì đây là tình thương vô điều kiện, tình thương không chấp vào sự ban phát nên không đòi hỏi một đền đáp nào, không tính toán, không vị kỷ và hoàn toàn phi logic theo một ý nghĩa nào đó. Yêu chỉ để mà yêu, thương chỉ để mà thương, nơi đây không có một mục đích vị kỷ nào hết, do đó đau khổ không có môi trường để phát sinh, đây là tình thương nơi chốn bình yên….
Để đúc kết, xin mượn ca từ của gã hát rong họ Trịnh bày tỏ nơi chốn nhân gian : “Hãy yêu nhau đi trên ghềnh dưới bải, hay yêu nhau đi cho gạch đá có tin vui … nước non cho ta những ngày vui với … dù mai nơi này người có xa người….”.
Hay là “Tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau…”. Tại sao tha thứ cho nhau ? Vì tôi không còn oán trách đời và cảm nhận được đời chưa từng mang đau khổ ban tặng cho tôi… Nơi đây tôi đã trở về với sự yên bình của tâm hồn, với một tấm lòng cần có trong đời….

Nguồn: FB LÊ MINH TÂM

PHẦN II

HÀO QUANG CON NGƯỜI

“Điều kỳ diệu xảy ra không ngược với tự nhiên mà chỉ ngược với cái ta biết trong tự nhiên”
St. Augustine

Nhập đề

Trải nghiệm riêng

Vì ta để cho bản thân phát triển các khả năng cảm nhận mới cho nên ta bắt đầu nhìn toàn bộ thế giới một cách khác hơn. Ta bắt đầu chú ý nhiều hơn đền các diện mạo trải nghiệm mà trước đó có thể ta thấy như là ở ngoại vi.
Ta thấy bản thân ta sử dụng ngôn ngữ mới để truyền đạt các trải nghiệm mới của mình. Những thuật ngữ như “viba yếu”, "năng lượng ở đấy lớn"... trở thành những câu cửa miệng. Ta bắt đầu để ý và tin nhiều hơn vào những trải nghiệm đại loại như gặp gỡ ai đó mà lập tức thấy ưa hay ghét mặc dù chưa biết tí gì về họ. Ta thích "viba " của anh ta. Khi ai đó nhìn chằm chằm vào ta là ta biết và nhìn ngược lên để xem đó là ai. Có thể ta cảm nhận được điều gì đó sẽ xảy ra, và về sau nó xảy ra thật. Ta bắt đầu lắng nghe trực giác của mình. Ta “biết” mọi việc, nhưng ta không bao giờ biết là bằng cách nào mà biết. Ta cảm thấy bạn mình đang nghĩ hoặc đang cần điều gì, và khi ta đưa tay ra để đáp ứng nhu cầu đó thì thấy đúng như vậy. Đôi lúc trong khi tranh luận với ai, có thể ta cảm thấy như có cái gì đó đang bị rứt ra khỏi đám rối thái dương của mình, hoặc cảm thấy như bị dao đâm. Có thể ta cảm thấy như bị ai khoan lỗ trong bao tử. Hoặc giả ta cảm thấy như có người đang rót một thứ mật đặc sánh nhơm nhớp lên ta. Nói cách khác, lắm lúc ta cảm thấy được yêu thương bao bọc và vuốt ve, được tắm trong một đại dương đầy tươi mát, may mắn và ánh sáng. Tất cả các trải nghiệm đó đều có thực tại trong trường năng lượng. Thế giới chất rắn cụ thể cũ của ta được bao quanh và thấm đẫm bởi một thế giới chất lỏng năng lượng bức xạ liên tục chuyến động, liên tục đổi thay như đại dương.
Trong các quan sát của tôi qua nhiều năm, tôi thấy những vật giống hệt các trải nghiệm này dưới dạng những hình thái bên trong hào quang con người gồm những thành phần thấy được và đo được của trường năng lượng bao quanh và thâm nhập thân thể. Khi ai đó đã bị “trúng tên" của người yêu thì nhà thấu thị có thể nhìn thấy mũi tên đó, theo đúng nghĩa của từ này. Khi bạn cảm thấy như thể cái gì đó đang bị rứt ra khỏi đám rối thái dương của mình, thì thông thường nhà thấu thị cũng nhìn thấy nó. Tôi cũng nhìn thấy được. Cuối cùng rồi bạn cũng sẽ nhìn thấy nếu bạn làm theo trực giác và phát triển các giác quan của mình.
Việc đó giúp phát triển tri giác cao cấp để xem xét điều mà các nhà khoa học hiện đại đã nghiên cứu về thế giới các trong năng lượng động. Nó giúp ta giải tỏa những tắc nghẽn trong đầu óc vẫn kềm giữ không cho thấy là ta cũng lệ thuộc vào mọi định luật vũ trụ.
Khoa học hiện đại cho ta biết rằng thân thể con người không phải chỉ là một cấu trúc thể chất bằng phân tử, mà như bất cứ vật gì khác, nó cũng gồm những trường năng lượng. Con người chuyển dịch ra khỏi thế giới hình thái chất rắn tĩnh để bước vào một thế giới các trường năng lượng động.
Con người cũng lên xuống như thủy triều. Con người cũng luôn luôn thay đổi. Là con người, ta phải xử sự ra sao đây trước một thông tin như thế? Ta thích nghi với nó. Nếu hiện hữu một thực tại như vậy thì ta phải trải nghiệm nó. Và các nhà khoa học đang nghiên cứu cách đo những thay đổi tinh tế đó. Họ đang phát triển dụng cụ để khám phá các trường năng lượng có liên quan đến thân thể con người và đo tần số của chúng.
Họ đo các dòng điện của tim với máy ghi điện tim (ECG). Họ đo các dòng điện não bằng máy ghi điện não (EEG). Máy phát hiện nói dối do hiệu điện thế của da. Hiện họ đã đo được các trường điện từ xung quanh thân thể với một thiết bị nhạy gọi là WQUII) (superconducting Quantum Interference Device, thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn). Thiết bị này thậm chí không đụng chạm tới thân thể khi đo các từ trường xung quanh người.
Bác sĩ Samuel Williamson, Trung đại học tổng hợp New York, tuyên bố rằng thiết bị SQT JII cung cấp nhiều thông tin về trạng thái của não hơn máy ghi điện não thông thường.
Do chỗ y học ngày càng tin cậy vào những dụng cụ tinh vi đo được các xung lực phát ra thì thân thể, cho nên sức khỏe, bệnh tật, thậm chí cuộc sống dần dần được xác định lại trong những điều kiện của các xung năng lượng và mô hình năng lượng.
Vào khoảng năm 1939, các bác sĩ H. Burr và Northrop, Trung đại học Yale, phát hiện rằng, bằng cách đo trường năng lượng của hạt giống thảo mộc (mà họ gọi là trong L. hoặc trường Sống), họ có thể xác định được cái cây tương lai nảy nở từ hạt giống đó sẽ khỏe mạnh hoặc ốm yếu.
Họ cũng phát hiện rằng, bằng cách đo trường năng lượng của trứng ếch, họ có thể thấy rõ vị trí hệ, thần kinh tương lai của chúng. Một đo đạc như vậy đã định được chính xác thời điểm rụng trứng ở phụ nữ, gợi ý về một phương pháp mới điều chỉnh sinh đẻ.
Năm 1959, Bác sĩ Leonard Ravitz, Trường đại học tổng hợp William and May, cho thấy trường năng lượng con người dao động theo tính ổn định tâm thần và tâm lý của người. Ông nêu lên giả thuyết về sự tồn tại của một trường liên kết với quá trình tư duy. Ông gợi ý rằng thay đổi của trong tư duy này gây nên các triệu chứng tâm thể.
Năm 1979, một nhà khoa học khác, Bác sĩ Robert Becker, Trường y Miền Bắc, Syracuse, New York, đã vẽ ra được một điện trường phối hợp trên thân thể có hình dạng giống như thân thể và hệ thần kinh trung ương. Ông đặt tên cho tường đó là Hệ kiểm tra dòng một chiều, và thấy nó thay đổi hình thù cũng như cường độ theo những thay đổi sinh lý và tâm lý. Ông cũng thấy những hạt chuyển động qua trường này lớn bằng các electron.
Bác sĩ Victor Inyushin, Trường đại học tổng hợp Kazakh ở Nga, đã tiến hành nghiên cứu rộng rãi về trường năng lượng của con người từ những năm 1950. Sử dụng kết quả các thí nghiệm nầy, ông nêu lên giả thuyết về sự tồn tại của một trường năng lượng « bioplasmic" gồm các ion, proton tự do và electron tự do. Bởi vì đó là trạng thái khác biệt với bốn trạng thái đã biết của vật chất - rắn, dịch, khí, và plasma -. lnyushin gợi ý rắng trường năng lượng bioplasmic là trạng thái thứ năm của vật chất.
Các quan sát của ông cho thấy các hạt bioplasmic luôn được đổi mới bởi các quá trình hóa học trong tế bào và chúng chuyển động liên tục. Chúng hiện ra như một cân bằng các hạt dương và âm bên trong bioplasma vốn có tính bền vững tương đối. Nếu có thay đổi nghiêm trọng trong cân bắng nầy thì sức khỏe của cơ quan đó bị ảnh hưởng. Mặc dù bioplasma có tính bền vững bình thường, lnyushin thấy có một số đáng kể của năng lượng nầy bức xạ vào không gian. Những đám mây hạt bioplasmic vỡ ra từ cơ quan đó có thể đo được khi chúng chuyển dịch vào không khí.
Như vậy là ta đã lao mình vào một thế giới các trường năng lượng sống, các trong tư duy và các hình thái bioplasmic chuyển động loanh quanh và tuôn ra khỏi thân thể. Ta đã trở thành chính chất bioplasma rung động và bức xạ ấy.
Thế nhưng nếu ta nhìn vào tài liệu thì điều nầy không phải chuyện mới mẻ. Người ta đã biết hiện tượng nầy từ buổi khởi đầu của thời gian. Đúng là đến thời đại chúng ta hiện tượng nầy mới được tái khám phá. Một thời gian công chúng phương Tây không biết đến nó hoặc bác bỏ nó. Suốt trong thời gian nầy các nhà khoa học tập trung vào kiến thức thuộc thế giới thể chất. Khi kiến thức nầy đã phát triển và vật lý học Newton mở đường cho lý thuyết tương đối, các lý thuyết điện từ và hạt, thì ta ngày càng có khả năng nhìn thay những mối liên kết giữa các mô tả khách quan khoa học của thế giới chúng ta và thế giới trải nghiệm chủ quan của con người.


CHƯƠNG 3

GHI CHÉP VỀ RÈN LUYỆN VÀ 

PHÁT TRIỂN VIỆC HƯỚNG DẪN

Tôi tin rằng điều quan trọng đối với người thầy chữa là được đào tạo tốt về chuyên môn: phương pháp chỉ đạo, giải phẫu, sinh lý, bệnh lý và kỹ thuật xoa bóp cũng như một số hiểu biết về châm cứu vi lượng đồng căn và dinh dưỡng, chữa trị bằng cây cỏ. Phần lớn những phương pháp chỉ đạo khác luôn kết hợp với việc đặt tay của thầy chữa hoặc tay của những người chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp thao tác trên bệnh nhân.
Người thầy chữa phải có một số kiến thức để hiểu rằng họ phải ăn ý với nhau như thế nào nhầm chữa trị cho một con người trọn vẹn và để có khả năng liên lạc với những người khác có liên quan đến bệnh nhân: Các phương pháp chăm sóc sức khỏe khác nhau có thể được chỉ định qua kênh dẫn của thầy chữa. Thầy chữa cần phải có kiến thức về giải phẫu và sinh lý để có thế hiểu được thông tin mà mình thu nhận. Trên tất cả là thầy chữa phải có khả năng thao tác cùng với các cán bộ y tế chuyên nghiệp khác để giúp bệnh nhân tự chữa trị.
Tôi được đào tạo tại một trường đại học quốc gia thành cử nhân khoa học Vật lý lưu uyển. Tôi đã nghiên cứu về thiết bị vệ tinh thời tiết của NASA trong năm năm. Tôi hoàn tất hai năm học làm cố vấn năng lượng sinh học. Một năm học liệu pháp xoa bóp, hai năm học giải phẫu/sinh lý, hai năm học chuyên khoa về các trạng thái biến đổi ý thức, đặc biệt về các kỹ thuật thư giãn sâu, một năm học vi lượng đồng căn, ba năm học năng lượng nòng cốt, năm năm học ở Trường đào tạo cứu trợ Pathwork và một số năm cùng một số nhà chữa trị trong nước tiến hành nghiên cứu riêng hoặc trong các hội thảo.
Tôi cũng thực hành thao tác trên nhiều người và trên trường năng lượng của họ, làm riêng hoặc làm theo nhóm trong hơn 15 năm. Kể từ khi tôi thành cố vấn thực hành thì những biện pháp qua đó người ta có thể xem tôi chữa trị đã được hình thành rồi. Nhiều người hẹn gặp. Ngày càng có nhiều bệnh nhân yêu cầu chữa trị theo cách nầy hơn là dùng thuốc, và dần dà thực hành cố vấn trở thành thực hành chữa trị. Cuối cùng tôi phải trao nhiệm vụ cố vấn tâm lý cho những người khác chuyên nghiên cứu lĩnh vực này đế chỉ nhận bệnh nhân đến chữa trị.
Trong những năm này, tôi cũng tham gia vào một số thí nghiệm đo đạc trường năng lượng con người. Chỉ sau khi hoàn tất mới việc nói trên, tôi mới thấy mình có đủ trình độ để thực hành chữa trị tại New York City và bắt đầu tự mình giảng dạy và tổ chức các hội thảo.
Làm tốt điều gì đó là việc không dễ, thì đúng là muốn trở thành nhà chữa trị cũng rất khó khăn. Ai cũng phải được đào tạo về tâm linh cũng như về chuyên môn. Ai cũng phải qua các thử nghiệm tự khai tâm thách thức những phần yếu kém về nhân cách và phái triển trung tâm sáng tạo, mong ước và ý đồ có thể nhà chữa trị trải nghiệm những thử thách này như là từ bên ngoài vào, nhưng thực ra điều đó không đúng. Nhà chữa trị tạo ra chúng để xem bệnh nhân đã sẵn sàng chưa và có đủ khả năng hay không trong việc điều khiển năng lượng, sức mạnh và sự trong sáng mà người đó phát triển trong chính hệ thống năng lượng cửa mình trên bước đường tiến lên thành nhà chữa trị. Năng lượng và sức mạnh này phải được sử dụng một cách liêm chính, trung thực và yêu thương, bởi vì nhân quả luôn hoạt động trong mọi hành vi. Bạn muôn thu lại cái mà bạn bỏ ra. Đó là cái gọi là nghiệp (karma, còn gọi là căn – ND) Khi dòng chảy năng lượng qua người bạn trong cương vị nhà chữa trị tăng thêm thì sức mạnh của bạn cũng tăng thêm. Nếu bạn để cho sức mạnh ấy bị sử dụng một cách tiêu cực thì cuối cùng bạn sẽ trải nghiệm tính tiêu cực giống như thế quay trở lại với bạn.
Cuộc sống của tôi rộng mở thì tôi càng ngày càng cảm nhận được bàn tay vô hình vẫn dẫn dắt tôi. Lúc đầu, tôi chỉ cảm nhận một cách mơ hồ. Rồi tôi bắt đầu nhìn thấy các sinh linh như trong cảnh mộng. Về sau, tôi bắt đầu nghe tiếng họ nói chuyện với tôi và cảm thấy ho đụng vào người tôi. Bấy giờ tôi mới thừa nhận là mình có hướng đạo. Tôi có thể nhìn thấy hướng đạọ đó. Nghe tiếng nói và chạm được vào. "Ông" nói "ông" không phải đàn ông mà cũng không phải đàn bà. "Ông" nói rằng trong thế giới của mình không phân chia giới tính và những ai có trình độ như mình đều là tổng thể. "Ông" xưng tên là Heyoan, tên có nghĩa là "Cơn gió thì thầm chân lý qua nhiều thế kỷ ". Sự giới thiệu của "ông " với tôi rất từ tốn và hữu cơ. Bản chất mối quan hệ của chúng tôi phát triển từng ngày, trong khi tôi được hướng dẫn đến những trình độ mới của kiến thức. Bạn sẽ thấy kiến thức đó hình thành khi chúng tôi cùng trải qua chuyện phiêu lưu này. Tôi lúc tôi đơn giản gọi nó là ẩn dụ.
Qua toàn hộ cuốn sách, tôi muốn chia sẻ với bạn một vài trong số những ví dụ rõ ràng hơn cả về sự hướng dẫn đó và sức mạnh của nó. Ở dây tôi muốn trình bày với bạn về tính đơn giản cũng như cung cách hoạt động của sự hướng dẫn này.
Loại hình hướng dẫn đơn giản nhất đến với tôi hằng ngày và nhiều lần trong ngày dưới dạng một nỗi khó ở. Heyoan nói rằng nếu ta răm rắp lắng nghe và làm theo hướng dẫn thì sẽ hiếm khi bị ốm đau. Nói cách khác, chăm lo đến nỗi khó ở của mình là đưa mình trở lại thế cân bằng và do đó trở lại với sức khỏe. Nỗi khó ở này có thể nằm trong thân thể ta dưới hình thái thể chất, tựa như nỗi khó ở thể chất hoặc đau đớn; nó có thể nằm ở bất cớ mức nào của con người chúng ta; cảm xúc, tâm thần hoặc tâm linh. Nó có thể nằm trong bất cứ khu vực nào của cuộc sống.
Heyoan hỏi : “Nỗi khó ở nằm ở đâu trong thân thể/ cuộc sống của bạn ? Bạn đã biết về nó từ bao lâu ? nó nói gì với bạn. Bạn đã làm được gì về chuyện nầy?"
Nếu đặt các câu hỏi đó một cách trung thực, bạn sẽ thấy mình coi thường biết mấy cái công cụ tốt nhất vốn có để giữ cho khỏe mạnh, hạnh phúc và khôn ngoan. Một nỗi khó ở tại bất cứ đâu nơi thân thể/cuộc sống của bạn là một thông điệp trực tiếp báo cho bạn biết bạn đang trệch khỏi bản ngã thực sự của mình như thế nào.
Làm theo hướng dẫn ở mức đơn giản này có nghĩa là nghỉ ngơi khi bạn mệt nhọc, ăn uống khi bạn đói khác, ăn uống thức gì mà thân thể bạn cần và vào lúc nó cần. Điều đó có nghĩa là giữ gìn hoặc thay đổi hoàn cảnh sống nếu bị quấy rầy. Bạn đã có khả năng cấu trúc cuộc đời mình tốt đến mức nào để có thể làm những việc ấy?
Chẳng phải dễ dàng, phải không ?
Khi bạn quan tâm hơn đến những nhu cầu cá nhân bằng cách lắng nghe các thông điệp bên trong đến với bạn dưới hình thái khó ở. Bạn sẽ trở nên cân bằng hơn, trong sáng hơn. Điều này làm cho hạn khỏe mạnh thêm. Thực hành lắng nghe bên trong cũng sẽ dẫn đến các hiện tượng hướng dẫn trực tiếp hoặc bằng lời. Có thể bạn bắt đầu cảm nhận những lời chỉ dẫn đơn giản từ tiếng nói "bên trong" - tiếng nói bạn nghe được bên trong bản thân nhưng bạn nhận ra là đến từ xa bên ngoài bản thân hạn. Có hai điểm quan trọng xung quanh việc học hỏi để đi theo hướng dẫn. Thứ nhất, bạn cần thực hành việc tiếp nhận hướng dẫn cho bản thân trước khi bạn có đủ trình dộ tiếp nhận hướng dẫn dành cho người khác. Thứ hai, thông tin hoặc chỉ dẫn mà bạn nhận được thoạt đầu có thể rất đơn giản và dường như hoàn toàn không có gì quan trọng. Nói tóm lại, tưởng chừng đi theo hướng dẫn như thế chỉ lãng phí thời gian. Tôi đã đi đến chỗ thấy được lý do của chuyện này. Về sau, khi dẫn kênh cho một thông tin quan trọng về cuộc đời của người khác hoặc thông tin đặc trưng về bệnh tật, người dẫn kênh chuyên nghiệp thường nhận được những thông tin không có ý nghĩa hoặc có vẻ không thích hợp hoặc sai rõ ràng. Có thể là như vậy, nhưng trong phần lớn thời gian đây là ý nghĩ duy lý khi làm việc. Thông tin đến theo một kênh rõ ràng đôi khi vẫn vượt qua cái mà ý nghĩ duy lý của người nhận kênh có thể hiểu. Những lúc đó, khi người nhận kênh thường cần đến nhiều trải nghiệm quá khứ để nhớ lại tất cả những lần thông tin đến mà không có ý nghĩa thì bấy giở mới thấy nó rất bổ ích và dễ hiểu khi nó chứa đựng toàn bộ nội dung thông tin. Hiện tại tôi thấy rằng trong khi chữa trị và dẫn kênh, nếu dùng phương thức không tuyến tính để nhận thông tin trong một giờ thì tôi thường dần dà có được một bức tranh khó hiểu cung cấp nhiều thông tin hơn là phương thức duy lý hoặc tuyến tính.
Nếu bạn nhìn, bạn sẽ bắt đầu nhận ra sự hướng dẫn qua những mô hình lớn nhất của cuộc đời bạn. Tại sao sự kiện này lại đi theo sự kiện kia? Bạn đã sử dụng được gì từ mỗi sự kiện ? Không phải ngẫu nhiên mà tôi được đào tạo thành nhà vật lý, rồi làm cố vấn, về sau là thầy chữa. Toàn bộ nội dung đào tạo đó đã chuẩn bị cho tôi thực hiện công việc của mình trên đời này. Đào tạo về vật lý cho tôi kiến thức để hiểu tâm lý động lực học bên quan đến dòng chảy năng lượng trong trường hào quang, và cũng cho tôi cơ hội quan sát trường hào quang của nhiều người. Tôi sẽ không thể gom chất liệu ấy lại được nếu không có những đào tạo đó. Dĩ nhiên tôi không hay biết gì về chuyện đào tạo thành thầy chữa khi tôi còn làm việc ở NASA. Trước dây, tôi chưa hề nghe ai nói chuyện đó cả, tôi cũng không quan tâm đến bệnh tật. Điều mà tôi quan tâm trước đây là thế giới hoạt động ra sao, cái gì làm cho nó vận hành một cách tự động. Tôi tìm các câu trả lời khắp nơi, lòng khao khát kiến thức là tác nhân mạnh mẽ nhất đẫn đường cho tôi suốt cả cuộc đời. Còn bạn, bạn khao khát gì? bạn ham muốn gì? Bất kể là gì, nó cũng sẽ đưa bạn đến cái mà sắp tới bạn phải làm để hoàn thành công việc của bạn, thậm chí cả khi bạn chưa biết việc đó là việc gì. Khi một việc được trình bày với bạn một cách dễ dàng và xem ra có vẻ tuyệt vời khi thực hiện nó và có nhiều điều vui thích thì bằng mọi cách bạn hãy thực hiện đi. Đó là hướng dẫn. Hãy để cho bản thân tự do trôi trong vũ khúc cuộc đòi của bạn. Nếu không làm như vậy là bạn cản ngăn hướng dẫn, cản ngăn tiến bộ của mình. Nhiều lần hướng dẫn đến với tôi rõ rệt hơn những lần khác. Riêng có một lần sự diễn ra tốt đẹp và sâu sắc đến nỗi mà từ đấy tôi được đưa qua nhiều phen dữ dội.
Vào thời gian đó, tôi làm cố vấn tại Washington D.C. Trong các buổi chữa trị, tôi bắt đầu nhìn thấy một cái gì đó có thể mệnh danh là các tiền kiếpTôi vẫn thường nhìn thấy cá thể mà mình đang thao tác sống giữa một cảnh trí hoàn toàn khác trong một cấu trúc khác của thời gian. Dù sự việc diễn ra thế nào chăng nữa thì về mặt nào đó nó cũng đúng là cái đang diễn ra trong đời sống con người. Chẳng hạn, ở một chị đang mắc chứng sợ nước, tôi nhìn thấy trong một kiếp khác chị ta bị chết đuối vì lúc ngã từ trên thuyền xuống nước chị kêu cứu một cách khó khăn và không ai nghe được tiếng kêu của chị. Hiện tại, khó khăn về nhân cách gây trở ngại cho cuộc sống của chị nhiều hơn là chứng sợ nước. Biết vậy nhưng tôi không có cách nào để xừ lý thông tin này một cách chính xác. Tôi bắt đầu cầu xin hướng dẫn. Tôi phải tìm được một người hoặc một nhóm người đáng tin cậy có thế xử lý thông tin này bằng biện pháp chuyên nghiệp.
Một buổi tối, trong khi tôi đang cắm trại, trên bờ biển Assateague lsland, Maryland, thì nhận được trả lời. Trời mưa nên tôi dùng mũ chụp bằng plastic trong mờ để trùm đầu và cuộn mình trong túi ngủ. Đến nửa đêm, tôi nghe có ai gọi tên và đánh thức. Tiếng nói rất rõ. "Chẳng có ai cả", tôi nghĩ vậy và nhìn lên bầu trời u ám. Lát sau tôi chợt nhận ra mình đang nhìn vào cái mũ chụp bằng plastic và trùm trên đầu. Tôi đưa tay bỏ mũ và rơi vào trạng thái kinh sợ trước cảnh màn trời sao lấp lánh căng rộng ra trên cao. Tôi nghe tiếng ca nhạc thượng giới vang khấp bầu trời từ vì sao nọ sang vì sao kia. Tôi coi trải nghiệm này là câu trả lời cho cầu xin của mình. Sau đó không lâu tôi tìm đến Trung tâm Phoenicia Pathwork, tại đây tôi được bồi dưỡng kiến thức cần thiết để lý giải tiền kiếp và các chất liệu siêu cảnh khác trong cả chín năm sau đó của tôi.
Tôi cũng biết đã đến lúc mình được thực hành công tác cố vấn tại Newyork City, bởi vì thôi thúc nầy rất mạnh trong tôi. Không gian nơi làm việc đã sẵn sàng. Và tôi cũng muốn có thay đổi trong cuộc sống của mình nên đã viết lên giấy để hỏi ý kiến hướng đạo. Tôi được trả lời rõ ràng là có, và cứ thế tôi tiến bước. Dần dần tôi được hướng dẫn từ thực thành công tác cố vấn sang thực hành chữa trị. Điều này xảy ra "tự động" như là đã được định trưóc, khi nhiều người bắt đầu đến chỗ tôi xin chữa trị. Sau đó tôi nhận được hướng dẫn bằng lời rằng phải ngưng việc thực hành và phải tập trung vào huấn luyện và viết cuốn sách này để cho nhiều người được đọc. Đi theo những thay đổi này không phải chuyện dễ. Dường như cứ mỗi lần tôi có được cuộc sống "vững chắc" là lại phải thay đổi - và nhờ vậy mà trưởng thành lên. Cái gì ngay sau đó thì tôi thật tình không biết, nhưng tôi biết rằng tôi sẽ được hướng dẫn từng bước trên đường đi.
Mỗi nhân cách đều có một đứa trẻ nằm bên trong. Người nào cũng có thể nhớ lại là làm trẻ con thì như thế nào, để cảm nhận niềm tự do nội tâm của đứa trẻ và để trải nghiệm cuộc đời một cách đơn giản. Đứa trẻ bên trong này rất khôn ngoanNó thấy là nó liên kết với toàn bộ cuộc đời. Nó biết yêu thương mà không cần biết gì hơn. Đứa trẻ bên trong này được che đậy khi ta thành người lớn và khi ta tìm cách sống theo tinh thần duy lý của mình. Điều này hạn chế chúng ta. Vấn đề là ờ chỗ đứa trẻ bên trong này phải bộc lộ ra để bắt đầu làm theo hướng dẫn. Bạn cần trở về với yêu thương, tin cậy sự khôn ngoan của đứa trẻ bên trong bạn để phát triển khả năng tiếp nhận và làm theo hướng dẫn. Tất cả chúng ta đều khao khát tự do - và qua đứa trẻ này mà sẽ có tự do. Sau khi cho phép đứa trẻ bên trong này của bạn được tự do hơn thì bạn mới có thể bắt đầu cuộc đốí thoại giữa một bên là người lớn và bên kia là những phần trẻ con trong nhân cách bạn. Cuộc đối thoại sẽ hợp nhất phần tự do và yêu thương của nhân cách bạn với người lớn tinh vi.
Bạn sẽ nghe tiếng nói của đứa trẻ và nhà chữa trị/nhà cố vấn/nhà vật lý rải ra khắp cuốn sách này. Điều đó sẽ giúp hạn buông lơi thực tại cố định của bạn và mở rộng trải nghiệm của bạn. Cuộc đối thoại đó là con đường dẫn đến kỳ quan. Hãy tìm nó nơi bản thân bạn và hãy nuôi dưỡng nó.
Tất cả mọi người đều được hướng dẫn bởi các thầy dạy tâm linh vẫn nói với ta trong giấc mơ, qua trực giác của ta, và cuối cùng nếu lắng tai, ta sẽ nghe họ nói trực tiếp với mình, ban đầu có thể qua chữ viết, sau đó qua âm thanh, tiếng nói hoặc các khái niệm. Các thầy dạy này rất mực yêu thương và tôn trọng ta. Trên đường đời của bạn, ở một thời điềm nào đó, có thể bạn cũng có khả năng nhìn thấy họ hoặc liên lạc trực tiếp với họ như tôi vẫn làm. Điều đó sẽ thay đổi cuộc đời của bạn, và bạn sẽ thấy mình được yêu thương chan hòa và trọn vẹn, cũng như ngay lúc này đây. Bạn hoàn toàn xứng đáng với yêu thương đó, bạn xứng đáng được hưởng sức khỏe, hạnh phúc và sự đền đáp trong cuộc đời mình. Bạn có thể tạo ra điều đó. Bạn có thể từng bước học hỏi quá trình thay đổi cuộc đời mình và làm cho nó vẹn toàn. Có nhiều con đường dẫn đến sự vẹn toàn này. Bạn hãy yêu cầu hướng dẫn về nơi bạn cần đến hoặc về con đường bạn cần đi, và bấy giờ bạn sẽ được hướng dẫn. Khi bạn có bệnh tật đe dọa tính mạng, gặp khó khăn trong hôn nhân, bị giảm sút ý chí - hay gặp khi phải vật lộn với những tình huống khó khăn trong lĩnh vực công việc mà bạn lựa chọn - thì ngay lúc đó bạn đã có thể bắt đầu đổi thay. Bạn lại có thể xếp ngang hàng bản thân với khát vọng sâu xa nhất của mình và lợi ích lớn nhất mà bạn phải mang lại cho bản thân và cho người khác. Bạn chỉ đơn giản yêu cầu giúp đỡ. Những yêu cầu của bạn sẽ được đáp ứng.
Điểm lại Chương 3 
1. Nhà chữa trị cần được huấn luyện loại kỹ thuật nào? Và tại sao?
2. Hình thái hướng dẫn đơn giản nhất trung đời bạn là hình thái nào?
Để làm động não
3. Bạn hãy kể một vài trường hợp trải nghiệm sâu sắc nhất về hướng dẫn trong đời hạn và tác động của chúng đối với cuộc đời của bạn.
4. Bạn có khả năng làm đúng theo hướng dẫn như thế nào?
5. Bạn có chú ý lắng nghe hay yêu cầu hướng dẫn cho bản thân không? Có thường làm như vậy không?


CHƯƠNG 2

CÁCH SỬ DỤNG CUỐN SÁCH

Cuốn sách nầy được viết ra chủ yếu cho những ai quan tâm đến sự hiểu biết bản thân và khám phá bản thân, quan tâm đến phương pháp chữa bệnh mới đang lan nhanh trên xứ sở nầy, nghệ thuật chữa bệnh bằng thao tác bàn tay.
Cuốn sách trình bày một nghiên cứu có chiều sâu về hào quang con người và mối quan hệ của nó với quá trình chữa bệnh cả về tâm lý lẫn thể chất. Cuốn sách trình bày một quan điểm toàn diện về cách sống có lợi cho sức khỏe và sinh trưởng. Nó được viết ra cho những người đặc trách bảo vệ sức khỏe, các thầy thuốc nội khoa, các tăng lữ và tất cả những ai tự coi mình là người khao khát có sức khỏe tốt hơn về thể chất, tâm lý và tâm linh.
Nếu bạn muốn học để tự chữa trị thì cuốn sách sẽ là một sự thách thức bởi vì, như được phác họa ở đây, tự chữa trị có nghĩa là tự cải biến. Mọi bệnh tật, là tâm lý hay thể chất, sẽ đưa bạn đến một hành trình khảo sát bản thân và phát hiện làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của bạn từ bên trong cho đến bên ngoài. Cuốn sách là sổ tay hướng dẫn cho hành trình đó, cả về tự chữa trị cả về chữa trị cho người khác.
Đối với các thầy chữa chuyên nghiệp, đang thực hành trong bất cứ kỷ cương nào của lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ, thì cuốn sách là tài liệu tham khảo sử dụng trong nhiều năm. Đối với sinh viên, nó là sách giáo khoa dùng trong lớp học có sự giám sát của một thầy chữa giàu kinh nghiệm. Có những câu hỏi ở cuối các chương. Tôi đề nghị sinh viên học chữa trị cứ trả lời các câu hỏi mà không nhìn lại bài. Điều đó có nghĩa là học bài giảng và làm bài tập nằm trong bài giảng. Những bài tập nầy không những tập trung vào chữa trị và xem xét kỹ thuật mà còn tập trung vào tự chữa trị và kỷ luật tự giác.
Các bài tập chú trọng đến việc cân bằng cuộc sống và tĩnh lặng tâm trí để mở rộng các tri giác của bạn.
Cuốn sách không thay thế được các bài giảng về chữa trị. Tốt nhất là dùng nó cùng với lớp học hoặc để chuẩn bị cho các khóa học chữa trị. Chớ đánh giá thấp số lượng công việc mà cuốn sách đòi hỏi phải làm để trở nên thành thạo trong cảm nhận các trường năng lượng và học hỏi thao tác đối với chúng. Bạn cần phải trắc nghiệm thao tác đặt tay trực tiếp của mình và được một thầy dạy chữa trị có trình độ kiểm tra các trắc nghiệm đó của bạn. Cảm nhận trường năng lượng con người không những đòi hỏi nghiên cứu và thực hành mà còn đòi hỏi sự phát triển của cá nhân. Đòi hỏi những thay đổi nội tâm làm tăng độ nhạy của cảm nhận đến mức bạn có thể học được cách phân biệt giữa tiếng huyên nào bên trong và thông tin lướt nhẹ từ ngoài vào, thông tin chỉ có thể nhận được bằng cách tĩnh lặng tâm trí.
Mặt khác, nếu bạn đã bắt đầu cảm nhận vượt qua giới hạn các giác quan thông thường thì cuốn sách có thể được dùng để kiểm tra các trải nghiệm đó. Mặc dù trải nghiệm của từng người là duy nhất, vẫn có những trải nghiệm chung mà người khác có trong quá trình mở rộng tri giác hoặc khai mở kênh của chúng như người ta vẫn gọi. Những sự kiểm tra nầy dùng để động viên bạn trên đường đời. Không, bạn sẽ không loạn trí đâu. Những người khác cũng đang nghe những tiếng động từ “không nơi nào cả” và đang nhìn thấy những ánh sáng không có ở đấy. Đó là toàn bộ sự khởi đầu một vài thay đổi kỳ diệu xảy ra trong đời bạn theo một cung cách bất thường nhưng lại tự nhiên hơn hết.
Rõ ràng là có nhiều người ngày nay đang mở rộng năm giác quan thông thường tới mức siêu cảm giác. Phần đông có thể phát triển tri giác cao cấp tiến lên xa hơn bằng cách cống hiến và nghiên cứu nghiêm túc. Có khả năng đã diễn ra việc cải biến về ý thức và thêm nhiều người phát triển một giác quan mới có thể nhận được thông tin trên một tần số khác chắc là cao hơn. Tôi đã làm được. Vậy bạn cũng có thể làm được. Sự phát triển như vậy trong tôi là một quá trình rất hữu cơ, chậm chạp đã dẫn tôi tới những thế giới mới và thay đổi thực tại của riêng tôi gần như hoàn toàn.
Tôi tin rằng quá trình phát triển tri giác cao cấp này là một bước tiến hóa tự nhiên của loài người, đưa ta vào một giai đoạn tiếp sau của phát triển mà ở đó, do những khả năng ta mới thu được, ta thường phải hết sức trung thực với người khác. Các cảm nghĩ và thực tại riêng của ta sẽ không còn bị che giấu bởi những cái khác, mà đã được truyền thông một cách tự động qua trường năng lượng của ta rồi. Vì mọi người đều học cảm nhận thông tin nầy cho nên chúng ta sẽ nhìn thấy nhau và hiểu nhau rõ ràng hơn hiện nay nhiều.
Chẳng hạn, khi ai đó tức giận, bạn có thể biết ngay. Điều này dễ thôi. Với tri giác cao cấp, bạn sẽ có thể nhìn thấy một đám mù sương màu đỏ xung quanh người đang tức giận. Để tìm ra cái gì đang xảy ra với người ấy ở mức độ sâu hơn, có thể không những tập trung vào nguyên nhân cơn giận hiện tại mà còn tập trung vào việc cơn giận đó liên quan như thế nào với trải nghiệm tuổi thơ và với mối quan hệ của người ấy với bố mẹ. Dưới đám mù sương màu đỏ sẽ hiện ra một chất tựa lỏng đặc sệt màu xám chất chứa buồn rầu. Bằng cách tập trung vào tinh chất của chất màu xám, chắc chắn bạn có thể nhìn thấy được cảnh tượng thời thơ ấu đã gây nên nỗi đau sâu sắc này. Bạn cũng sẽ thấy cơn giận đó tác hại như thế nào đến thân thể. Bạn sẽ thấy rằng người ấy có thói quen phản ứng lại trước một hoàn cảnh bằng cách nổi cơn giận, khi mà kêu khóc có lẽ là xúc cảm bổ ích hơn cho việc giải thoát, nhằm mang lại cách xử lý hoàn cảnh. Sử dụng tri giác cao cấp, bạn sẽ có khả năng tìm được những lời lẽ giúp người đó lắng xuống, liên kết với thực tại sâu sắc hơn và giúp họ tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, trong một tình huống khác, bạn có thể thấy rằng bộc lộ cơn giận đúng là cái cần thiết để giải quyết hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Ta đã đi tới trải nghiệm nầy một lần rồi thì không phải cứ cái gì về sau cũng lại như thế. Cuộc đời ta bắt đầu thay đổi theo những chiều hướng mà ta không hề mong đợi. Ta hiểu được mối quan hệ nhân quả; ta thấy rằng ý nghĩ tác động đến trường năng lượng của ta, đến lượt trường năng lượng lại tác động lên thân thể và sức khỏe. Ta thấy rằng ta tạo ra trải nghiệm thực tại cho chính mình qua trường năng lượng đó. Trường năng lượng con người là môi trường qua đó diễn ra các sáng tạo của ta. Bấy giờ nó có thể thay đổi thực tại như thế nào nếu ta lựa chọn như vậy. Nó trở thành môi trường qua đó ta tìm ra biện pháp đi vào tận bên trong con người sâu kín nhất của ta. Nó trở thành nhịp cầu đi tới linh hồn ta, đi tới cuộc sống nội tâm riêng của ta, đi tới tia sáng của Siêu phàm bên trong mỗi chúng ta.
Tôi muốn khuyến khích bạn thay đổi “mô hình” riêng của bạn về con người thực của mình, bởi vì tôi đưa bạn đi qua thế giới Tri giác cao cấp vào thế giới Trường năng lượng con người. Bạn sẽ thấy hành động và hệ thống niềm tin của bạn tác động và giúp cho việc sáng tạo thực tại của bạn tốt hơn hay xấu như thế nào. Một khi bạn thấy điều nầy, bạn sẽ nhận ra rằng bạn đủ sức thay đổi những cái bạn không ưa và đề cao những cái bạn thích về cuộc đời của mình. Việc đó đòi hỏi nhiều dũng khí, tìm tòi cá nhân, hành động và trung thực.
Không phải là con đường dễ đi, nhưng không nghi ngờ gì nữa, đây là con đường đáng giá.
Cuốn sách sẽ góp phần chỉ ra con đường đó cho bạn, không những qua một mô hình mới cho mỗi quan hệ của bạn với sức khoẻ, mà còn cho mối quan hệ của bạn với toàn bộ cuộc đời bạn với vũ trụ mà bạn tự thấy mình trong đó. Bạn hãy đều đặn dành ra cho mình một ít thời gian riêng để trải nghiệm mối quan hệ mới nầy.
Hãy tự cho mình là ánh sáng của ngọn nến tỏa lan vào vũ trụ.
Tôi đã chia cuốn sách thành những phần tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thông tin về trường năng lượng vũ trụ và mối quan hệ của nó với bạn. Như bạn đã đọc thấy, phần thứ nhất nầy nói về vị trí của trường hào quang trong cuộc đời của bạn. Hiện tượng được các nhà thần bí mô tả lâu nay bây giờ phải làm gì để vừa lòng bạn? Nó ăn khớp với cuộc đời của bạn ở chỗ nào? Nó dùng để làm gì nếu được sử dụng?
Các bệnh sử của bệnh nhân cho thấy rằng hiểu biết về hiện tượng nầy có thể làm thay đổi diện mạo thực tại của bạn như thế nào. Jenny chẳng hạn, chị thấy chị cần có một thời gian chữa trị đáng kể trước khi có con, Jenny đặt sức khỏe và cuộc đời của mình vào chính tay mình (nơi mà dù thế nào chăng nữa nó vẫn luôn luôn ở đấy), và thay đổi một tương lai có thể xấu thành một tương lai hạnh phúc mà chị thích. Lối nhận thức đó có thể đưa tất cả chúng ta vào một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới yêu thương nảy sinh từ nhận thức sâu sắc; một thế giới thắm tình huynh đệ, nơi mà những người trước đây bị coi là kẻ thù nay nhờ nhận thức đó mà trở thành bè bạn.
Phần II đặc biệt nói nhiều hơn về hiện tượng trường năng lượng. Nó mô tả hiện tượng này trên quan điểm lịch sử, khoa học lý thuyết và khoa học thực nghiệm. Sau toàn bộ phần nầy, tôi sẽ tiến hành mô tả trường năng lượng con người từ quan điểm riêng của mình vốn là một hòa trộn quan sát và lý luận phối hợp với những kết luận của các tác giả khác ghi trong sách vở. Xuất phát từ thông tin này mà phát triển một mô hình trường năng lượng con người sử dụng cho cả thao tác tâm lý lẫn thao tác chữa trị tâm linh.
Phần III trình bày những phát hiện của tôi về mối quan hệ giữa trường năng lượng con người và các động lực tâm lý.
Mặc dù bạn có thể không quan tâm đến tâm lý học hoặc quá trình riêng của từng người trong quá khứ, bạn sẽ thấy rằng phần nầy rất mực soi sáng trong những giới hạn của việc tự khám phá.
Nó sẽ giúp bạn không những hiểu được cái gì làm cho bạn ứng xử một cách tự động, mà còn hiểu được cung cách ứng xử đó. Thông tin này rất cần cho những ai muốn vượt qua giới hạn thông thường của tâm lý học và tâm lý liệu pháp để đi vào những quan điểm khoáng đạt hơn về con người cũng như về thực tại năng lượng và tâm linh của chúng ta.
Những chương sách nầy cung cấp các cấu trúc quan hệ đặc thù dùng cho việc hòa nhập các hiện tượng trường năng lượng con người vào tâm lý động lực học thực hành. Những thay đổi của bức tranh trường năng lượng con người trong quá trình làm cố vấn cũng được giới thiệu. Với những ai quan tâm đến lĩnh vực tự khám phá thì chương nầy sẽ đưa họ vào một địa hạt mới, nơi mà thực tại các trường năng lượng của họ tương tác trong cuộc sống hằng ngày sẽ mang một ý nghĩa mới mẻ và sâu sắc hơn.
Sau khi đọc sách, bạn có thể tìm ra những biện pháp thực tiễn để sử dụng các động lực của trường năng lượng vào các mối quan hệ với những người mà bạn yêu thương, con cái hoặc bạn bè. Nó sẽ giúp bạn hiểu được thấu đáo hơn về điều đang diễn ra tại cơ quan trong các tương tác với những người cùng làm việc với bạn. Những phần của mục nầy mang nhiều nội dung kỹ thuật và có thể bạn đọc nói chung phải bỏ qua một vài tư liệu (các chương 11,12,13 )
Có thể bạn sẽ phải đọc lại khi bạn có nhiều câu hỏi đặc trưng hơn về hoạt động của trường năng lượng con người.
Phần IV của cuốn sách nói về kết quả của việc nâng cao trình độ tri giác của bạn - điều có ý nghĩa đáng kể ở mức độ cá nhân, mức độ thực tiễn và mức độ rộng lớn hơn khi nói về thay đổi xã hội ta đang sống. Tôi đưa ra những giải thích rõ ràng về các lĩnh vực trong đó cần phải mở rộng tri giác, về trải nghiệm việc mở rộng đó trong từng lĩnh vực và cung cách tiến hành. Tôi cũng cung cấp một sơ cấu lý thuyết để đặt vào trong đó các trải nghiệm nầy cùng các quan hệ mật thiết có quy mô lớn cho nhân loại vì chúng ta cũng là một nhóm chuyển dịch vào những thay đổi đó. Những thay đổi này không những tác động lên các cá thể chúng ta mà còn làm thay đổi toàn bộ kết cấu của đời sống nhân loại như đã biết.
Phần V nói về quá trình chữa trị tâm linh. Tôi nói chữa trị tâm linh vì nó liên kết với bản chất tâm linh bẩm sinh của ta. Phần này giới thiệu những kinh nghiệm và kỹ thuật chữa trị trong mối quan hệ với trường năng lượng con người. Nó kết hợp thông tin nhận được bằng tri giác mở rộng (đã nói ở phần IV) với chữa trị, làm cho người thầy chữa có khả năng bắt đầu quá trình chữa trị cho mình và cho người khác đạt kết quả tốt.
Do chỗ các kỹ thuật này không phải dễ dàng học được, chắc là bạn sẽ phải học ở lớp. Những tài liệu giảng dạy phần nào chuyên môn hóa nầy dùng để giúp sinh viên bắt đầu làm quen với chất liệu đối tượng mà không đòi hỏi phải dạy kỹ thuật. Bạn phải học riêng với người nào đã biết chữa trị trước khi muốn trở nên thành thạo.
Điều rất quan trọng là được một thầy chữa giỏi kiểm tra trải nghiệm của bạn. Muốn thành một thầy chữa chuyên nghiệp, phải được bồi dưỡng nhiều về việc dạy học, thực hành và thao tác cá nhân. Người nào thực sự mong ước thì có thể trở nên thành thạo trong chữa trị và dẫn kênh.
Bạn cần phải nghiên cứu và thực hành để phát triển kỹ năng của mình như trong bất cứ nghề nghiệp nào khác. Tôi tin chắc rằng một ngày nào đó trong một tương lai không quá xa xôi, các chương trình đào tạo chữa trị và dẫn kênh bằng bàn tay sẽ được công nhận. Nếu bạn muốn trở thành nhà chữa trị chuyên nghiệp thì ngay bây giờ bạn phải tìm đến một nhà chữa trị như vậy để tập sự.
Phần VI cung cấp một công trình nghiên cứu về chữa trị cho David, trong đó bệnh nhân đóng vai trò tích cực, cho thấy bệnh nhân đã trở thành thầy chữa như thế nào.
Phần VI tập trung vào các phương pháp thực hành tự chữa trị và đề xuất một số bước đi gần nhất cho những ai muốn thực hành chữa trị bằng cách trình bày biện pháp phục hồi cũng như gìn giữ sức khỏe và cân bằng trong cuộc sống của bạn.
Các giai đoạn phát triển cá tính trong quá trình trở thành thầy chữa cũng được mô tả, điều đó đưa đến các câu hỏi.
Sức khoẻ là gì? Thầy chữa là ai?


MKRdezign

{facebook#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {twitter#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {google-plus#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {pinterest#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {youtube#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL} {instagram#YOUR_SOCIAL_PROFILE_URL}

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget